11/29/2013

Bí quyết đạt điểm thi đại học môn Văn cao

“Để đạt điểm cao môn Văn, khi nhận đề thi, thí sinh nên đọc thật kỹ đề bài thi, chú ý đến các từ ngữ quan trọng trong đề để từ đó xác định đúng yêu cầu, nội dung trong đề bài. Khi làm bài, các em nên làm đủ 3 câu trong đề, bởi nội dung dù sơ sài một chút thí sinh vẫn được điểm cao hơn nhiều so với việc các em bỏ bớt đi một câu và tập trung làm quá chi tiết những câu khác”.

Đó là chia sẻ của thầy Phạm Hữu Cường, giảng viên môn Văn, Trường đại học Sư phạm Hà Nội.

Thầy Cường cho biết, cái khó của đề thi đại học môn Văn là ở chỗ thí sinh phải giải quyết được đầy đủ, sâu sắc yêu cầu của đề trong một thời gian hạn hẹp. Vì vậy khi làm bài thi, thí sinh nên chú ý đến việc phân bổ thời gian hợp lý và dành ít phút viết thật nhanh ý chính ra nháp để tránh quên ý khi làm bài.

Điển cố trong thơ Hàn Mặc Tử

Việc nghiên cứu tư duy sáng tạo nghệ thuật đem đến cho chúng ta nhận thức về những con đường sinh thành, phát triển của hình ảnh, hình tượng và mạch xúc cảm trong tác phẩm nghệ thuật. Đối với tác phẩm thơ, tính kiệm lời mà đa nghĩa đã chi phối đến sự lựa chọn các thủ pháp, cách thức biểu hiện của nhà thơ. Ẩn dụ, hoán dụ, điển cố, so sánh... đã trở thành thủ pháp được yêu thích của các tác giả thuộc thể loại này.

Trong thơ Hàn Mặc Tử, bên cạnh việc sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ như đã tìm hiểu, liên tưởng của thi nhân còn trượt rất xa về quá khứ để từ đó chiêm nghiệm, nhìn ngắm và xúc cảm về thực tại. Khi ấy, không gì đắc dụng hơn cho nhà thơ là việc sử dụng những điển cố. Điển cố theo cách hiểu của các tác giả Từ điển Tiếng Việt là: "sự việc hay câu chữ trong sách đời trước được dẫn trong thơ văn"1. Hai học giả người Mỹ gốc Trung Hoa là Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân trong công trình Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường cho rằng khái niệm điển cố tương đương với khái niệm "dụng sự" trong tiếng Hán, nghĩa là dùng một sự việc đã qua để ám chỉ một sự việc trước mắt2. Với những phân tích, lý giải khá cặn kẽ trên đối tượng thơ cận thể, hai tác giả này đã chứng minh tính hữu dụng của điển cố trong việc tạo nên sự hàm súc, kiệm lời của tác phẩm thơ. Trần Đình Sử trong công trình Thi pháp Truyện Kiều khá thống nhất với hai học giả trên ở quan điểm về bản chất điển cố là "dụng sự" nhưng tác giả này nhấn mạnh "điển cố nhắc điển để nói tình trong việc"3. Tình trong việc ở đây thuộc thì hiện tại trong cảm nhận của nhà thơ. Quách Tấn trong Thư gửi các bạn ham làm thơ Đường luật (Bức thư thứ mười bẩy) diễn giải: "Dụng điển là lấy sự tích nơi kinh sử đời xưa, mượn chữ mượn ý trong văn thơ cũ, trong cổ ngữ... đem vào tác phẩm để nói được kín đáo, được bóng bảy, được gọn gàng, nhất là gọn gàng những tình ý mà số chữ hữu hạn trong câu văn câu thơ không thể nói được đầy đủ"4. Như vậy, các quan điểm đều thống nhất ở chỗ điển cố là dùng sự việc hay câu chữ trong sách đời trước để soi ngắm, chiêm nghiệm hay biểu cảm về sự việc, tình huống của hiện tại, nó không phải là miêu tả sự việc của quá khứ mà là nối kết hiện tại với quá khứ bằng sợi dây "đồng đẳng" để biểu đạt hiện tại. Khi nghiên cứu Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Đoàn Ánh Loan đã chỉ ra liên tưởng là một tính chất của điển cố. Theo tác giả này, "Sự liên tưởng, so sánh trong quá trình tư duy của người đọc là chất "xúc tác" kết hợp nghĩa trực tiếp của điển cố với hiện thực văn cảnh tạo nên đặc trưng của điển cố"5.

Tây Tiến một “lệch chuẩn” tài hoa và độc đáo

Hơn 60 năm đã đi qua kể từ khi bài thơ Tây Tiến ra đời, vậy mà việc giải mã nỗi ám ảnh của nó vẫn cứ như món nợ khó trả xong của những người làm công việc phân tích văn chương. Vì sao? Phải chăng vì số phận long đong của nó? Không phải! Cái long đong phận số của một tác phẩm văn chương có thể làm nên tiếng vang nhưng chưa chắc trở thành ám ảnh. Vả lại, từ ngày Tây Tiến trở về ngự trị khá bền vững trong sách giáo khoa tính đến nay cũng đã hơn gần 20 năm rồi, mà chưa có bài viết nào thuyết phục được người đọc về cái hay của Tây Tiến. Tất nhiên, văn chương là chuyện của muôn đời, nhưng cái sức hấp dẫn lạ kì của Tây Tiến quả là chỉ cảm thấy mà không biết vì sao. Cùng thời Tây Tiến cũng có những bài thơ hay của Tố Hữu, Chính Hữu, Hoàng Cầm, Hữu Loan... song những bài thơ hay của các tác giả này phần nào đã được định hình về cách giải mã. Riêng với Tây Tiến thì chưa. Quả là một hiện tượng lạ.

Tôi xin được bắt đầu bằng chữ “lạ” này để thử góp phần tìm ra một chút gì đó chăng về Tây Tiến. Vâng! Nó lạ hơn những bài thơ cùng thời với nó, và cả với thơ ca trước đó nữa. Mà lạ chính là do phong cách thơ. “Phong cách là những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà văn, một tác phẩm” (theo sách Thuật ngữ văn học). Vậy cái “nét tương đối bền vững” trong “hệ thống hình tượng” và “phương thức biểu hiện nghệ thuật” của Tây Tiến là gì vậy? Phải chăng đó là sự “lệch chuẩn” của nó so với phong cách chung trong thơ ca kháng chiến chống Pháp?

Yếu tố tự truyện trong sáng tác của Kim Lân

Nhìn ngắm dung mạo bên ngoài hàng ngày của cố nhà văn Kim Lân người ta dễ nhận ra rằng đích thị đây là một người của làng cầm bút, một người của giới có nội tâm. Nhưng bảo rằng, thử đoán xem ông là nhà thơ hay nhà viết văn xuôi, thì chịu... ấy là chưa kể là ông còn đóng phim - chả biết ông học làm diễn viên từ bao giờ, tại trường lớp nào, hay là chỉ học ở cái trường đời, mà thấy ông đóng vai này vai nọ, ông diễn rất được, rất vào. Ông là người đa tài chăng?

Trong lao động bình thường của một người viết văn xuôi luôn luôn xẩy ra một sự tranh chấp giữa một bên là cái ý định phải dấu mình đi để cho từ cái tình huống, cái bối cảnh, cái nhân vật… mà mình dựng ra sẽ nói lên cái tôi - tức là cái tư tưởng chủ đề, cái yêu, cái ghét của mình… và một bên là cái cảm hứng tự nhiên của một người cầm bút, là muốn được trực tiếp bày tỏ, diễn đạt, kể lể…

Vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng trong “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người, một lòng đi về với "thuần hậu phong thuỷ" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư".

Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lí thật bất ngờ.

Tổng hợp những kiến thức cần nhớ về tác phẩm "Vợ nhặt" - Kim Lân

VỢ NHẶT

I. Về tác giả.

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh năm 1920 tại làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm.

Kim Lân bắt đầu sự nghiệp viết văn năm 21 tuổi với những câu chuyện mang tính chất tự truyện như: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa,.... Trong những câu chuyện này, Kim lân đã thể hiện được khá sắc sảo không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn và cuộc sống lam lũ của người nông dân Việt nam trước Các mạng tháng tám.

11/27/2013

Phân tích hình tượng cây Xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

“Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn học thời chống Mĩ. Trong tác phẩm, với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã làm nổi rõ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Khuynh hướng này đã chi phối sự sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn trong giai đoạn văn học này.

Đọc “Rừng xà nu” những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai… tạo nên ấn tượng sâu sắc nơi độc giả. Nổi bật hình ảnh cây xà nu được lặp đi lặp lại gần hai mươi lần một hình tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Hình tượng ấy đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi và lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô-man bất khuất, kiên cường. Qua tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một cảm xúc thật say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và dường như rất quenthuộc với con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến đấu chống Mĩ thật anh dũng của họ.

Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.

Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành

"Tây Nguyên ơi! Hoa rừng bao nhiêu thứ
Cảnh hoa đẹp nhất rừng
Tây Nguyên ơi! Anh có nhớ buôn làng
Nhớ người con gái...
... Nhớ cánh hoa Pơ lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên ... "
("Em là hoa Pơ lang" - Đức Minh)

Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mĩ! Ai đã từng biết hoa Pơ lang vật báu của Trời có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm ngát hàng vạn năm được nói đến trong sử thi "Đăm Săn"! Tiếng hát ấy còn đem đến cho ta bao xúc động bồi hồi khi nghĩa tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, một kiệt tác viết về đề tài Tây Nguyên thời đánh Mĩ.

Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc thời đánh Mĩ. Truyện "Rừng xà nu" của ông lần đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung bộ, số 2 năm 1965. Truyện mang đậm tính sử thi, của dân làng Xô Man chống Mĩ - Diệm diễn ra vô cùng ác liệt, đầy máu và nước mắt, sáng bừng ngọn lựa và chiến công. Những con đường, dốc núi, bờ suối chằng chịt hầm chông, hố chông, giàn thò, lưỡi thò "sắc lạnh". Nhà ưng, nơi tụ hội của người Strá, đã có lúc biến thành pháp trường, chiến trường dữ dội, bi tráng:

11/25/2013

Trình bày ngắn gọn sự nghiệp văn học của Nam Cao

Nam Cao (1915 - 1951), quê ở phủ Lí Nhân, thuộc tỉnh Hà Nam. Có bằng Thành chung trường Pháp - Việt. Từng làm thư kí hiệu buôn ở Sài Gòn, dạy học tư và viết văn ở Hà Nội. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao đánh dấu từ truyện ngắn "Chí Phèo" (1941).

Trước cách mạng, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc. Ông viết thành công ở hai mảng đề tài: nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Các truyện ngứn như: Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, Tư cách mõ, Đời thừa, Trăng sáng,... là những tác phẩm xuất sắc xây dựng thành công những bi kịch trong cuộc đời với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết. Nam Cao có một cuốn tiểu thuyết duy nhất mang tên "Sống mòn" nhưng không để lại nhiều tiếng vang.

Nêu vắn tắt sự nghiệp văn học của Nam Cao

Các ý chính:

- Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam thế kỉ XX, là đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng và cũng là cây bút tiêu biểu của nền văn học mới sau Cách mạng tháng Tám 1945.

- Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính để sáng tác: cuộc sống của người trí thức nghèo và của người nông dân nghèo.

Ở đề tài trí thức tiểu tư sản nghèo, đáng chú ý là các truyện: Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Đời thừa, Cười, Nước mắt, Mua nhàm,... tiểu thuyết Sống mòn. Trong khi miêu tả chuân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, "giáo khổ trường tư", học sinh thất nghiệp,... Nam Cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ.

Khát vọng và bi kịch trong "Đời thừa" của Nam Cao

Lẽ ra với những tác phẩm như Đời thừa của Nam Cao, chúng ta không còn gì để bàn thêm bởi từ khi được đưa vào nhà trường, giá trị của tác phẩm này đã được các nhà nghiên cứu khẳng định ở rất nhiều phương diện. Góp thêm một lời bình, một cách đánh giá e rằng chỉ là nói theo, nói dựa. Tuy nhiên, không hiểu sao Đời thừa vẫn tạo nên những ám ảnh thôi thúc tôi viết bài này.

Bối cảnh của truyện là xã hội thành thị Việt Nam trong những năm 1930 – 1945. Nhân vật chính là văn sĩ Hộ. Anh là một tín đồ tự nguyện sống khổ hạnh để tôn thờ nghệ thuật. Hộ thừa hiểu dấn thân vào nghệ thuật là khổ, “mê văn quá nên mới khổ”. Khi chưa có gia đình, “đói rét không có nghĩa lí gì với một gã trẻ tuổi say mê lí tưởng” như Hộ. Hộ chỉ lo vun trồng cho cái tài của anh ngày một thêm nảy nở. Chính vì thế, anh đã “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán”. Đây cũng là một phẩm chất cần thiết của người làm nghệ thuật. Người nghệ sĩ tất nhiên cần có vốn sống thực tế nhưng nếu không chịu đọc, không chịu tích lũy cho mình vốn tri thức thì khó mà có được những tác phẩm “để đời”. Hộ có khát vọng vô cùng cao đẹp. Đó là mong muốn viết một tác phẩm sẽ “ăn giải Nô-ben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”. Đây không phải là thói háo danh tầm thường mà là khao khát của một nghệ sĩ đích thực. Khi ý thức cá nhân thức tỉnh, nhân vật của Nam Cao muốn vươn lên để khẳng định giá trị của mình trên đời, muốn đem tài năng và tâm huyết để giúp ích cho đời, để không trở thành một người thừa, để không phải sống một cuộc đời thừa như cái tên tác phẩm đã nhắc đến. Nói không phải đây là thói háo danh tầm thường vì gắn liền với giải thưởng mơ ước ấy là một quan niệm về nghề nghiệp vô cùng nghiêm túc và tâm huyết. Hộ coi “sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương rồi nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Về giá trị của văn chương, Hộ quan niệm, một tác phẩm thực sự có giá trị phải “vượt lên trên mọi bờ cõi và giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người”. Đây là câu văn rất quan trọng trong Đời thừa – và kể cả trong đời văn của Nam Cao. Chỉ tiếc là trong hầu hết các bài phê bình viết về tác phẩm, câu văn này chưa được quan tâm đúng mức. Nếu hiểu đây là lời phát biểu gián tiếp quan niệm nghề thuật của Nam Cao ta sẽ phần nào tìm được những thông điệp mà ông muốn kí thác qua mỗi tác phẩm của mình. Phải nói rằng, Nam Cao đã “ngôn chí” một cách đáng trọng cái chí lớn trong nghệ thuật.

Phân tích tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn "Đời thừa"

Thời kỳ văn học 1930-1945, không ai vượt được Nam Cao trong việc mô tả tấn bi kịch của người trí thức, nhất là người trí thức nghèo trong xã hội cũ.

Chỉ xét riêng một truyện ngắn Đời thừa (in lần đầu tiên vào cuối năm 1943), ta cũng có thể nhận ra tấn bi kịch ấy với bao nghịch cảnh, bế tắc, xót xa.

Hộ, nhân vật chính của Đời thừa, là một nhà văn có tài và đầy tâm huyết. Người đọc có thể nhận ra ở Hộ nhiều nét tự truyện của chính Nam Cao. Hộ đã từng viết được những tác phẩm có giá trị, được bạn bè cùng giới viết văn và người đọc yêu mến, cổ vũ. Nhưng, không muốn dừng lại ở bất kỳ chặng nào của thành công, không bao giờ mãn nguyện với những gì đã được viết ra. Hộ luôn luôn khao khát vươn tới cái tận thiện, tận mĩ của nghệ thuật. Hộ thèm khát nghĩ đến một tác phẩm “nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”.

Phân tích tác phẩm "Đời thừa" của Nam Cao - Bài 1

Truyện tập trung vào bi kịch nhân vật Hộ. Đó là bi kịch của người trí thức nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Hộ đã khao khát làm được một việc gì đó để nâng cao giá trị của mình trước toàn xã hội, muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa mà cuối cùng chỉ vì gáng nặng áo cơm ghì sát đất mà phải sống một “đời thừa”, những khao khát bị tiêu diệt, những tâm tính tốt nhất cũng bị huỷ hoại.

Ở Hộ có hai bi kịch cơ bản:

1) Trước hết là bi kịch của một trí thức nghệ sĩ, bi kịch của một nhà văn. Trước kia Hộ là một nghệ sĩ chân chính, sống có lí tưởng, có hoài bão, mơ ước một sự nghiệp văn chương, có quan niệm đúng đắn về tác phẩm nghệ thuật có tính nhân đạo (“Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao mạnh mẽ…Nó làm cho con người gần người hơn”), có quan niệm đúng đắn về đạo đức của người cầm bút (“Văn chương không cần những người thợ khéo tay…sáng tạo những cái gì chưa có”). Và Hộ đã xả thân cho lí tưởng đó, không nề hà gian khổ. Nhưng khi bước vào cuộc sống với gánh nặng gia đình, Hộ đã dần dần biến thành một cây bút khác hẳn. Khi có cả một gia đình để lo, Hộ không thể sống như trước. Gia đình Hộ muốn sống thì cần phải có tiền. Hộ không thể không nghĩ đến kiếm tiền. Bị đồng tiền làm cho điêu đứng, Hộ đã lao vào kiếm tiền. Trong điều kiện của mình, Hộ chỉ có một phương tiện duy nhất để kiếm sống là ngòi bút, là phải viết. Muốn có tiền thì phải viết nhiều. Muốn viết nhiều thì phải viết nhanh. Muốn viết nhanh thì phải viết ẩu. Thế là Hộ lao vào sản xuất những bài báo nhạt nhẽo, những cuốn sách cẩu thả mà người đọc quên ngay sau khi đọc, còn mình thì mỗi lần đọc lại cảm thấy xấu hổ, bởi đó đều chỉ là những “ý rất nông được quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và nhạt nhẽo”. Bi kịch là ở chỗ, Hộ luôn ý thức về sự cẩu that của mình: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Còn gì đau đớn cho bằng muốn làm một nhà văn chân chính, với một nghiệp văn có ý nghĩa rốt cuộc lại thấy mình trở thành một cây bút đê tiện. Hộ đau đớn mà thấy rằng: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”

Gợi ý phân tích nhân vật Hộ trong truyện ngắn "Đời thừa"

a. Hộ là một con người giàu tình thương

- Hộ đã hành động một cách cao đẹp “nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ”. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ… Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

- Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện “phí đi một vài năm để kiếm tiền” lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, “Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm”. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, “hôn hít chúng vồ vập”. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo. Sắp nhận được tiền nhuận bút, hộ thương đàn con thơ cả tháng “đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn”.

Gợi ý phân tích nhân vật Từ trong truyện ngắn "Đời thừa"

- Ngoại hình: chắc là thời con gái, Từ cũng có một ít nhan sắc? Nam Cao rất ít tả ngoại hình. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ một người đàn bà “bạc mệnh”: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại,… Cái bàn tay lủng củng rặt những xương. Cổ tay mỏng mảnh. Làm da mỏng, xanh trong, xanh lọc… Đó là hình ảnh một thiếu phụ, nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

- Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, “cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả”.

Xuất xứ, chủ đề truyện ngắn "Đời thừa"

1. Truyện ngắn “Đời thừa” đăng trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” số 490 ra ngày 4/12/1943.

2. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.

Tóm tắt tác phẩm "Đời thừa"

Hộ là một nhà văn trẻ có tài, viết thận trọng, ôm ấp một lý tưởng một hoài bão xây dựng nên một sự nghiệp văn chương. Nhưng từ khi mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ - một cô gái lỡ làng, bị tình nhân phụ - Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ, Hộ mới hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền, những bận rộn tẹp nhẹp ngốn phần lớn thì giờ của hắn. Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội. Hắn đỏ mặt xấu hổ khi đọc văn mình, tự mắng mình là một thằng khốn nạn. Có lúc anh tự nhủ mình phí đi vài năm để kiếm tiền. Một bầy con thơ nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn trở nên cau có, gắt gỏng. Có lúc, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn lắc đầu tự bảo: “… Ta đã hỏng đứt rồi!”. Hắn rũ buồn.

11/23/2013

Nghị luận xã hội: Thành công của người này là thất bại của người khác - Bài 2

Nhà văn nữ người Pháp Ursula K. Le Guin đã từng nói: "Thành công của người này là thất bại của người khác”. Câu nói này cho rằng thành công và thất bại của mọi người thường hoán đổi cho nhau và không thể có tình trạng tất cả mọi người đều thành công cùng một lúc. Anh (chị) hãy bình luận câu nói trên.

Trong cuộc sống hằng ngày, xã hội luôn không ngừng thay đổi, có những con người nghị lực đã tự xây dựng nên cuộc sống ấm no, đã vun đắp ý chí, tạo lập nên được thành công cho riêng mình. Đó là những con người cần cù, tự lập, rất đáng để ta noi theo, học tập. Tuy nhiên, cuộc sống với nhiều khó khăn và biến đổi, không phải ai cũng đạt được thành công như mình mong muốn, bên cạnh thành công của người này có khi là thất bại của người khác. Cũng băn khoăn về những vấn đề này, nhà văn nữ người Pháp Ursula K. Le Guin đã từng nói: "Thành công của người này là thất bại của người khác”. Câu nói này cho rằng thành công và thất bại của mọi người thường hoán đổi cho nhau và không thể có tình trạng tất cả mọi người đều thành công cùng một lúc. Vậy thế nào là thành công, thế nào là thất bại, và tại sao thành công của người này là thất bại của người khác?

Nghị luận xã hội: Thành công của người này là thất bại của người khác - Bài 1

Nhà văn nữ người Pháp Ursula K.Le Guin đã từng nói: "Thành công của người này là thất bại của người khác." Câu nói này cho rằng thành công và thất bại của mọi người thường hoán đổi cho nhau và không thể có tình trạng tất cả mọi người đều thành công cùng một lúc. Anh (chị) hãy bình luận câu nói trên.

Bài làm

Trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều cố gắng đạt được một thành quả nào đó, cố gắng thực hiện ước mơ của mình, đều muốn được thành công trong những việc mình làm. Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta đều thành công trong mọi việc. Nhà văn nữ người Pháp Ursula K.Le Guin đã từng nói: "Thành công của người này là thất bại của người khác." Câu nói này cho rằng thành công và thất bại của mọi người thướng hoán đổi cho nhau và không thể có tình trạng tất cả mọi người đều thành công cùng một lúc. Không phải câu nói này sai, tuy nhiên, nó chỉ đúng trong một phạm vi nào đó, không phải lúc nào cũng chính xác.

Sứ mệnh bài thơ Tây Tiến

Văn học chống Pháp đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Sứ mệnh phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu bằng thành công của những khúc tráng ca như Đất nước của Nguyễn Đình Thi; Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc… Và trong sâu thẳm tâm hồn người lính “mùa xuân ấy” vẫn gầm lên một Sông Mã oai hùng, trong kí ức thi ca dân tộc vẫn đau đáu bởi một Tây Tiến của Quang Dũng bất thần đảo phách trong khúc tráng ca thời đại. Chỉ có thể là, bài thơ ấy vẫn còn chưa chịu nằm im trên mặt giấy, dường như vẫn muốn thôi thúc chúng ta phải lục lọi kí ức, phải đọc, phải đi đến những Sài Khao, Mường Hịch, Pha Luông, những hội đuốc hoa, những hàng mộ chinh phu viễn xứ.

Có lẽ hiếm có thi phẩm nào, thậm chí các tác phẩm kinh điển thế giới, lại có sức mạnh đến thế. Thai nghén từ kí ức chiến chinh, lọt lòng từ làng Phù Lưu Chanh xa ngái, Tây Tiến trở về đánh thức một kí ức lịch sử, phục dựng những trận chiến và khiến tất cả khổng thể quên những cái tên chiến binh, tên đơn vị, tên dốc, tên đèo mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua.

Quan điểm nghệ thuật Nam Cao trước cách mạng tháng 8 - 1945

Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao “Đôi Mắt” của mình. Tất cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một người “trí thức trung thực vô ngần” luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cách mạng tháng Tám.

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua “Trăng Sáng” và “Đời Thừa”. Trong “Trăng Sáng”, nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải “vị nhân sinh”, nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết “Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than”. Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ “tài cao, phận thấp, chí khí uất” (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc. Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên “những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

Dàn ý phân tích người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

Dàn ý:

- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người có ngoại hình xấu xí. Những nét thô kệch ấy, trong lam lũ vất vả bởi những lo toan và mưu sinh thường nhật, khi đã ngoài 40, lại càng trở nên đậm nét.

- Sức chịu đựng và sự hi sinh thầm lặng của người đàn bà làng chài làm nhiều người ngỡ ngàng

+ Vừa ở dưới thuyền lến tới chiếc xe rà phá mìn, chị đã bị chồng rút chiếc thắt lưng quật tới tấp. Nghệ sĩ Phùng tưởng chị sẽ tránh né hoặc kêu la. Nhưng chị cam chịu, nhẫn nhục, không kêu rên, không chống trả và cũng không chạy trốn. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình; chấp nhận như cuộc sông của một người đi biển đánh cá phải đươg đầu với sóng to, gió lớn vậy. Muốn tồn tại thì phải chấp nhận.

Phân tích hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa"

I. Mở bài

Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu ra những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ, cách nhìn về cuộc đời qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Và có lẽ, hình tượng "chiếc thuyền ngoài xa" trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.

II. Thân bài

- Tên truyện ngắn là "Chiếc thuyền ngoài xa", và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng "lắm sáng kiến" đối với nhân vật xưng "tôi" - người nghệ sỹ nhiếp ảnh: "...Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền "mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái", rồi tiếp theo nữa là "một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn" và cuối cùng tập trung vào "một chiếc thuyền lướt vó ...đang chèo thẳng vào trước mặt tôi". Đây chính là "Chiếc thuyền ngoài xa".

Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

“Chiếc thuyền ngoài xa”ra đời ba năm trước thời điểm 1986 - mốc mà bất cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do.

Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào nhung nham đổi mới triệt để của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào nhung nham này như là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặt khác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắt buộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy cho mình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phế liệu của nghệ thuật mà thôi.

Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của mình và nhu cầu của văn học. Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châu trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉ diễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn ra bằng nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải, lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạng thái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhân; ai biết được người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ, của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vật kia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt đồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa" - bài 2

Hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn rõ rệt: trước thập kỉ tám mươi, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn; từ đầu thập kỉ tám mươi đến khi mất, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lúc nào cũng trăn trở "tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người". Thế nên khi xây dựng nhân vật ông luôn có ý thức đặt nhân vật của mình lên bàn xoay để từ đó từng góc độ, từng khía cạnh của nhân vật tự bộc lộc. Người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa là một nhân vật như thế.

Luận điểm 1: Người đàn bà làng chài trong cái nhìn đầu tiên của nhân vật Phùng

Người đàn bà xuất hiện lần đầu tiên trong sự chứng kiến của Phùng, một nhiếp ảnh gia sau khi đã chứng kiến một cảnh đắt trời cho. Nguyễn minh Châu miêu tả "Người đàn bà trạc ngoài bốn m­ơi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo l­ưới, tái ngắt và dường như­ đang buồn ngủ". Đây là nhân vật tiêu biểu cho dạng "nhân vật tính cách - số phận" trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Bằng một giọng văn lạnh lùng, tác giả đã giúp người đọc tiếp cận nhân vật của mình từ phương diện ngoại hình tuổi tác nhưng chỉ bằng vài thông tin ngắn gọn mù mờ: người đàn bà ấy trạc bốn mươi, người miền biển, thân hình cao lớn thô kệch. Người đàn bà miền biển ấy lại được gọi bằng "mụ", "mụ rỗ mặt". Người đàn bà ấy không tên. Tác giả chỉ gọi là "người đàn bà" một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo"ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Bình giảng tác phẩm ‘Chiếc thuyền ngoài xa’ của Nguyễn Minh Châu

Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn để phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.

Trước hết cần đặt truyện ngắn này trong cảm hứng sáng tác chung của Nguyễn Minh Châu giai đoạn đầu những năm 80 ở thế kỷ trước, đó là cảm hứng luận đề. Cảm hứng luận đề thể hiện ở một loạt truyện Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Hương và Phai, Bến quê, Khách ở quê ra, Mẹ con chị Hằng, Sống mãi với cây xanh, Mảnh đất tình yêu, Một lần đối chứng, Chiếc thuyền ngoài xa … có tính luận đề ở chỗ nhà văn đã cho “đối chứng” với các quan niệm lạc hậu, lỗi thời, cổ hủ, xưa cũ… về con người, về cuộc đời và cả về nghệ thuật. Ngay chính Nguyễn Minh Châu, lúc sinh thời cũng có lần tâm sự rằng chính mình cũng chưa thích “một vài truyện tính chất luận đề về đạo đức để lộ ra quá rõ”(1). Chiếc thuyền ngoài xa cũng thể hiện điều này ở một vài câu văn, ví dụ: “Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khoắc trong phần của tâm hồn”. Nó chỉ là một vài vết gợn để lộ ra mục đích thuyết giáo của tác giả, không ảnh hưởng tới chủ đề chính của tác phẩm là luận đề về quan niệm giữa chân lý nghệ thuật và cuộc sống. Chính cảm hứng luận đề này đã chi phối Chiếc thuyền ngoài xa và Một lần đối chứng: nhà nghệ sĩ phải nhìn kĩ, nhìn sâu vào những gì tưởng là đẹp đẽ, hài hoà để nhận ra bản chất của nó, từ đó mà có trách nhiệm  cao hơn, sâu sắc hơn với cuộc đời và con người.

Phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Bài 1

Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,người bạn chiến đấu năm xưa,giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào.Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần:“Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.

Phân tích triết lý nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua "Chiếc thuyền ngoài xa"

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Phân tích và chứng minh "Hai đứa trẻ" là một bài thơ trữ tình đầy xót thương

Đề bài: Sách văn 11 , năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam: "Mỗi truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương (trang 148). Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.

Hướng dẫn:

Trước khi chứng minh tác phẩm, cần nói qua về khuynh hướng, cảm hứng và giọng điệu truyện ngắn Thạch Lam làm tiền đề dọn đường cho việc phân tích truyện ngắn này.

Cần phân tích Hai đứa trẻ để làm nổi bật các ý sau đây :

- Chất thơ của truyện (bài thơ trữ tình): những cảm xúc dịu nhẹ mà lắng sâu của Thạch Lam trước cảnh đời, tình người lúc bấy giờ nó gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc (ở đây là những cảm xúc đối với người dân ở cái phố huyện nghèo nàn và tàn lụi - và đặc biệt đối với cuộc sống buồn chán và ước mơ của hai đứa trẻ).

- Nhưng đó lại là mộ bài thơ trữ tình đầy xót thương, có nghĩa là chất thơ ấy được bay lên từ một cuộc sống còn lầm than cơ cực của những kiếp người bé nhỏ vô danh trong xã hội cũ (họ sống lầm lũi, vật vờ như những cái bóng trong bóng tối dầy đặc bao phủ kín mít của phố huyện nghèo mà buồn chán).

- Cái chất thơ ấy còn được thể hiện ở nghệ thuật, ở giọng điệu văn Thạch Lam.

Bài làm.

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởI ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lạI theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giớI nhân vật là những lớp ngườI nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tốI của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoạI ô Hà NộI. Nhân vật của ông chủ yếu là con ngườI thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏI cuộc đờI, nơi xã hộI đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con ngườI mớI cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tạI để xót mình và thương ngườI, để bâng khuâng man mác khi hồI tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con ngườI nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả ..

Phân tích tác phẩm "Hai đứa trẻ" - Bài 2

Mang một cuộc sống cơ cực, nghèo khổ, sống trong một khu phố tồi tàn và không có một chút ánh sáng ngoại trừ những thứ ánh sáng nhấp nhoáng nhỏ xíu cùng với một kiếp người sống tàn tạ và tồi tệ. Những con người này là những kiếp người không có lối thoát,họ mng muốn được sống với một kiếp người đầy đủ, tuy không giàu có nhưng cũng đủ để họ bớt cực khổ nhưng hy vọng đó chính là mong manh đối với họ. Những kiếp người tội nghiệp. Đây là nội dung cực kỳ ý nghĩa, gúp chúng ta cảm nhận được số phận của những người nghèo khổ thông qua tác phẩm “hai đứa trả” của tác giả Thạch Lam. Ông sinh năm…người quê…, đã có công lao to lớn khi đã đóng gpóp nhiều tác phẩm có giá trị trong nên văn học của nước nhà vào thế kỷ 20. Nằm trong nhóm Tự Lự Văn Đoàn vùng với những người bạn và tác phẩm như Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo – Nam Cao. Những tác phẩm của ông vô cùng phong phú và sâu sắc, không kém những tình tiết lãng mạn.

Buổi chiều – là khoảng thời gian gồm có những yếu tố tác động đến con người, làm cho những con người như chúng ta cảm thấy có một cảm giác buồn chán và vô cùng cô đơn hiu hãnh. Hơn thế nữa, trong tác phẩm “hai đứa trẻ”thì tác giả Thạch Lam đã miêu tả một buổi chiều của nơi phố huyện, một buổi chiều của một ngày tàn, tiếp đến là phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ không có lối thoát, họ luôn có những ước mơ và khát vọng cháy bỏng.

Phân tích tác phẩm "Hai đứa trẻ" - Bài 1

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

11/22/2013

Phân tích nhân vật Phùng trong "Chiếc thuyền ngoài xa"

Đề bài: Phân tích nhân vật Phùng trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu

Hướng dẫn làm bài

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử.
“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Phân tích truyền thống cách mạng trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình"

Đề bài: Phân tích truyền thống cách mạng trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

Hướng dẫn làm bài

I. Mở bài

- Giới thiệu truyện ngắn" Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.

- Nêu và trích dẫn quan niệm của Nguyễn Thi về dòng sông truyền thống gia đình qua các thế hệ nhân vật trong tác phẩm.

II. Thân bài

1. Nêu nhận định chung: Những đứa con trong gia đình là một dòng sông truyền thống chảy từ thế hệ này đến thế hệ khác và theo quan niệm của Nguyễn Thi mỗi đời người trong một gia đình phải là một khúc sông trong dòng sông truyền thống.

Vẻ đẹp của sông Hương qua góc nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích luỹ cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.

Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tuỳ bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tuỳ theo cảm hứng”.

Tóm tắt tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông"

Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế.

Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại,có nhiều ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già.

Lúc về đồng bằng,sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người.Hai bên bờ sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.Dòng sông mềm như tấm lùa uốn cong,cảnh đẹp như bức tranh có đường nét,hình khối "trôi đi giũa hai dãy đồi sừng sửng như thành quách", "cao đột ngột như VỌNG CẢNH, TAM THAI, LƯU BẢO". Sông hương có vẻ đẹp da màu biến ảo: "sớm xanh,trưa vàng,chiều tím".

Lúc qua thành phố Huế, sông Hương "trôi đi thực chậm", chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương "đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình,vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim Trọng.

Sưu tầm - Nguồn: diendankienthuc.net

Phân tích phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Đề: “Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú” (Ngữ văn 12 – Tập I).

Anh (chị) hãy phân tích bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của H.P.N.T để làm rõ nhận định trên.

Bài làm.

I. Mở bài:

- H.P.N.T là một trong những cây bút kí tiêu biểu của VHVN hiện đại. Với thể loại kí, H.P.N.T thể hiện trên từng trang văn vốn kiến thức uyên bác và cách viết tài hoa.

- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí của H.P.N.T. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ Huế với những trang văn “vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú”.

Phân tích Ai đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”...

Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian.Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt - khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo trong "Hồn Trương Ba da hàng thịt"

Bài làm.

Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.

Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.

Phân tích tấn bi kịch trong đoạn trích "Hồn Trương Ba da hàng thịt" của nhà văn Lưu Quang Vũ

Đề bài: Phân tích tấn bi kịch trong Hồn Trương Ba da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ.

Hướng dẫn làm bài

A. Mở bài

Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

B. Thân bài

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.

Phân tích vẻ đẹp của sông Hương trong tác phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông"

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của con sông Hương qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Bài làm

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyện về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén vời suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông .

Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ Niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho Xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

Phân tích bút pháp lãng mạn trong "Chữ người tử tù"

Trong sự nghiệp Nguyễn Tuân, tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” là một mốc son đậm nét giúp người đọc hiểu và gần Nguyễn Tuân hơn, một Nguyễn Tuân tài ba, uyên bác và làm chủ gần như tuyệt đối vốn tiếng Việt phong phú, dồi dào và đầy sáng tạo. Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó những yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số đó.

Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. 

Đoạn trích tác phẩm "Chữ người tử tù"

Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, Viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao:

- Này , thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù phải chết chém. Trong đó tôi nhân thấy tên đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?

Thầy thơ lại xin phép đọc công văn.

- Dạ, bẩm chính y đó. Dạ bẩm, có chuyện chi vậy?

- Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái tên đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buông giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?

- Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!

- Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?

- Tôi thấy những người có taif thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thương tiếc.

- Chuyện triều đình quốc gia, ta biết chi mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì kkhốn. Thôi thầy lui về mà trông nom việc dứơi trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho ó mặt ở trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy bắt thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai tên. Hễ chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kẻng, đánh kẻng, đánh mõ thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ cho mấy tên thập thò nó đánh bạc nghe !Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn leo lóet rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn. Tiếng kiểng và mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, văng vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống chân trời không định.

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù"

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát với văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗi tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.

Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Phân tích những tương phản trong cảnh Huấn Cao cho chữ

Đề bài: Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong ảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà giam (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân).

Bài làm

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ ngôn tử, là một văn nhân tài tử. Trước cách mạng, tác phẩm “Vang bóng một thời” đã khẳng định bút pháp nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân. Là một trong số mười hai truyện ngắn của “Vang bóng một thời” (1940), truyện “Chữ người tử tủ” xứng đáng là một trang hoa đích thực đem lại hương sắc cho đời.

Truyện chỉ có 3 nhân vật: tử tù, quản ngục và thầy thơ lại, xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ. Quan đó, Nguyên Tuân đã ca ngợi và khẳng định kẻ sĩ chân chính rất tài hoa, giàu khí phách hiên ngang, bất khuất, đến chết vẫn đề cao thiên lương.

Truyện “Chữ người tử tù” thể hiện lối viết tài hoa của Nguyễn Tuân. Tình tiết, sự kiện, cảm xúc dồn nén như thắt lại lúc đầu để tạo hứng thú nghệ thuật cho đến phần cuối truyện khi cảnh cho chữ diễn ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã sang tạo nên những tương phản nghệ thuật giàu ý nghĩa thẩm mĩ trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong nhà giam.

11/21/2013

Cấu trúc đề thi đại học môn Văn năm 2014

I- Phần chung cho tất cả thí sinh (5,0 điểm)

Câu 1 (2, 0 điểm): Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam

- Khái quát văn hoc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) - Vũ Trọng Phụng
- Chí phèo (trích) - Nam Cao
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô) - Nguyễn Huy Tưởng
- Vội vàng - Xuân Diệu
- Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
- Tràng Giang – Huy Cận
- Chiều tối - Hồ Chủ Tịch
- Từ ấy - Tố Hữu
- Một thời đại trong thi ca (trích) - Hoài Thanh và Hoài Chân
- Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đén hết thế kỷ XX
- Tuyên ngôn độc lập và tác giả Hồ Chí Minh
- Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc - Phạm Văn Đồng
- Việt Bắc (trích) và tác giả Tố Hữu
- Đất nước (trích Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm
- Sóng – Xuân Quỳnh
- Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo
- Người lái đò trên Sông Đà (trích) - Nguyễn Tuân
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) - Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Vợ chồng A Phủ (trích) - Tô Hoài
- Vợ nhặt – Kim Lân
- Rừng xà nu (trích) - Nguyễn Trung Thành
- Những đứa con trong gia đình (trích) - Nguyễn Thi
- Chiếc thuyền ngoài xa (trích) - Nguyễn Minh Châu
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích) - Lưu Quang Vũ

Xem: Tổng hợp các câu hỏi 2 điểm trong đề thi Văn Đại học.

Câu 2 (3,0 điểm): Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn (khoảng 600 từ)

- Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

Xem: Tổng hợp các bài văn nghị luận xã hội mẫu ôn thi Đại học.

II- Phần riêng (5,0 điểm): Vận dụng khả năng đọc- hiểu và kiến thức văn học để viết bài nghị luận văn học

(Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu 3a hoặc 3b)

Câu 3a: Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm)

- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) - Vũ Trọng Phụng
- Chí phèo (trích) - Nam Cao
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô)- Nguyễn Huy Tưởng
- Vội vàng - Xuân Diệu
- Đây thôn Vũ Dạ - Hàn Mặc Tử
- Tràng Giang – Huy Cận
- Chiều tối - Hồ Chí Minh
- Từ ấy - Tố Hữu
- Một thời đại trong thi ca (trích) - Hoài Thanh và Hoài Chân
- Tuyên ngôn độc lập và tác giả Hồ Chí Minh
- Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc - Phạm Văn Đồng
- Tây Tiến - Quang Dũng
- Việt Bắc (trích) và tác giả Tố Hữu
- Đất nước (trích Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm
- Sóng – Xuân Quỳnh
- Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo
- Người lái đò trên Sông Đà (trích) - Nguyễn Tuân
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) - Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Vợ chồng A Phủ (trích) - Tô Hoài
- Vợ nhặt – Kim Lân
- Rừng xà nu (trích) - Nguyễn Trung Thành
- Những đứa con trong gia đình (trích) - Nguyễn Thi
- Chiếc thuyền ngoài xa (trích) - Nguyễn Minh Châu
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích) - Lưu Quang Vũ

Câu 3b: Theo chương trình nâng cao (5,0 điểm)

- Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ) - Vũ Trọng Phụng
- Chí phèo (trích) - Nam Cao
- Đời thừa (trích) - Nam Cao
- Nam Cao
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tô) - Nguyễn Huy Tưởng
- Vội vàng - Xuân Diệu
- Xuân Diệu
- Đây thôn Vũ Dạ - Hàn Mặc Tử
- Tràng Giang – Huy Cận
- Tương tư - Nguyễn Bính
- Nhật ký trong tù - Hồ Chí Minh
- Chiều tối - Hồ Chí Minh
- Lai tân - Hồ Chí Minh
- Từ ấy - Tố Hữu
- Một thời đại trong thi ca (trích) - Hoài Thanh và Hoài Chân
- Tuyên ngôn độc lập và tác giả Hồ Chí Minh
- Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
- Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc - Phạm Văn Đồng
- Tây Tiến - Quang Dũng
- Việt Bắc (trích) và tác giả Tố Hữu
- Tố Hữu
- Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên
- Đất nước (trích Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm
- Sóng – Xuân Quỳnh
- Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo
- Người lái đò trên Sông Đà (trích) - Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) - Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt (trích) - Lưu Quang Vũ
- Vợ chồng A Phủ (trích) - Tô Hoài
- Vợ nhặt – Kim Lân
- Những đứa con trong gia đình (trích) - Nguyễn Thi
- Rừng xà nu (trích)- Nguyễn Trung Thành
- Một người Hà Nội - Nguyễn Khải
- Chiếc thuyền ngoài xa (trích) - Nguyễn Minh Châu